Phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực công nghệ không quá nhiều. Nhưng không thể phủ nhận họ đã và đang có những đóng góp đáng ngưỡng mộ trong sự phát triển công nghệ của nhiều quốc gia trên thế giới. Chúng ta hãy cùng hoài niệm và tôn vinh đóng góp của những người phụ nữ tiên phong trong công nghệ trong bài viết dưới đây.
Ngành công nghệ đang là một lĩnh vực hot và thu hút được sự chú ý của nhiều bạn trẻ. Nhìn lại những thành tựu vô cùng nổi bật về số hoá và chuyển đổi số ấn tượng như hiện nay chúng ta có kỳ vọng vô cùng lớn vào một tương lai với cuộc sống hiện đại, tân tiến và ngày càng thuận tiện, dễ dàng. AI, Machine Learning, được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đời sống. Vũ trụ ảo Metaverse đang được nhiều ông lớn như Google, Microsoft… đầu tư với hy vọng có thể giúp mô phỏng một vũ trụ ảo chân thực, nơi con người có thể trao đổi, giao dịch, gặp mặt,… với nhân vật đại diện giống với chúng ta.
Để đạt được những thành tựu nổi bật trên, công nghệ đã phải từng bước phát triển qua thời gian, trải qua muôn vàn khó khăn thách thức. Trước thềm kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ mùng 8 tháng 3 sắp tới chúng ta hãy cùng FSI điểm lại 5 người phụ nữ có đã tiên phong trong lĩnh vực phát triển công nghệ. Họ là những con người đã đặt nền móng cho sự phát triển hiện đại của công nghệ hiện nay.
Ada Lovelace
Ada Lovelace được nhiều người coi là lập trình viên đầu tiên trên thế giới dù đã sống một thế kỷ trước khi phát minh ra máy tính hiện đại. Bà là con gái hợp pháp duy nhất của nhà thơ theo trường phái lãng mạn Lord Byron. Ada Lovelace được mẹ bồi dưỡng như một nhà toán học và nhà khoa học. Năm 17 tuổi, bà được giới thiệu với Charles Babbage – một nhà phát minh có những ý tưởng đã khiến bà say mê từ rất sớm và đây cũng chính là người đã trở thành người bạn đồng thời là tri kỷ cả đời của bà.
Năm 1842, Lovelace đã dịch một cuốn hồi ký của kỹ sư quân sự người Ý tên là Luigi Menabrea về một bài giảng do Babbage – chồng bà thực hiện về Máy phân tích, máy tính đa năng đầu tiên mà Babbage thiết kế. Thích thú với bản dịch của vợ mình, Babbage đã yêu cầu bà có thể bổ sung vào bản thiết kế bà đã làm như vậy, thêm phần ghi chú, cuối cùng bản thiết kế đã dài gấp ba lần bản gốc. Những ghi chú này về sau đã làm nên tên tuổi của bà sau này.
Những ghi chú của Ada Lovelace bao gồm một tập hợp đầy đủ các hướng dẫn cho công cụ phân tích để tính toán tuần tự các số Bernoulli. Nhưng ngoài khả năng xử lý số của chiếc máy, Ada Lovelace đã nắm được toàn bộ tiềm năng của nó: đó là một chiếc máy có thể được tạo ra để thao tác các con số cũng có thể được tạo ra để thao tác bất kỳ dữ liệu nào được biểu thị bằng các con số. Một thế kỷ trước khi có chiếc máy tính hiện đại đầu tiên, Ada Lovelace nghĩ rằng động cơ này có thể được sử dụng để soạn nhạc, tạo đồ họa và nhiều hơn thế nữa. Bà ấy đã đúng.
Grace Hopper (1906 – 1992)
Grace Hopper là người tiên phong trong lĩnh vực lập trình máy tính. Khi Hoa Kỳ bước vào Thế chiến thứ hai, bà đã rất cố gắng để được gia nhập Cục Dự trữ Hải quân. Sau này, bà được bổ nhiệm vào Dự án Tính toán Vật liệu tại Phòng thí nghiệm Cruft tại Đại học Harvard. Tại đây, Grace Hopper làm việc với Howard Aiken, nhà thiết kế và kỹ sư chính của IBM’s Mark I, được coi là máy tính quy mô lớn đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh.
Sau đó, Hopper lao vào và học cách lập trình, là tác giả của cuốn sổ tay hướng dẫn vận hành dài 600 trang cho Mark I. Vào cuối chiến tranh, bà đang làm việc trên Mark II thì bắt gặp một con sâu bướm lớn khiến chiếc máy bị hỏng. Bà ấy ghi lỗi vào nhật ký và cảm thấy vô cùng thích thú vì đã sửa được lỗi của chiếc máy một cách nhanh chóng.
Sau chiến tranh, Hopper làm việc cho Tập đoàn Máy tính Eckert-Mauchly – nơi đã giúp bà xây dựng UNIVACs – một máy tính sử dụng ống chân không thay vì công tắc rơ le đầu tiên. Chính trong những năm này, Garace đã có những đóng góp lớn cho công việc lập trình. Năm 1952, bà phát triển trình biên dịch đầu tiên, xuất bản bài báo đầu tiên về chủ đề này. Bà đã theo đuổi nó với FLOW-MATIC, được coi là trình biên dịch xử lý dữ liệu bằng tiếng Anh đầu tiên, cung cấp nền tảng cho sự phát triển của COBOL vào năm 1959.
Margaret Hamilton
Margaret Hamilton là kỹ sư phần mềm đã giúp đưa con tàu Apollo lên mặt trăng, công việc của Margaret Hamilton đã góp phần to lớn vào nỗ lực của NASA trong việc hạ cánh con tàu này lên bề mặt của mặt trăng trong những năm 1960 và 1970.
Trước đây Margaret Hamilton được đào tạo chuyên sâu về toán học và khí tượng học, Hamilton đã làm việc trong dự án phần mềm đầu tiên khi làm trợ lý cho một một giáo sư ở MIT. tại đây bà được học một số ngôn ngữ và hệ thống. Trước khi làm việc tại Apollo, bà cũng từng tham gia nghiên cứu trong dự án trong Hệ thống Phòng không Bán tự động Môi trường Mặt đất (SAGE) của MIT Lincoln Lab – một hệ thống phòng không ban đầu cho nước Mỹ. Khi NASA chọn MIT để thiết kế hệ thống dẫn đường và dẫn đường cho tàu vũ trụ, Hamilton đã chớp lấy cơ hội.
Là trưởng bộ phận kỹ thuật phần mềm của Phòng thí nghiệm Thiết bị của MIT, bà và nhóm của mình chịu trách nhiệm về phần mềm trên máy bay. Phần mềm điều chỉnh động lực bay của tàu vũ trụ Apollo, được sử dụng cho sáu nhiệm vụ hạ cánh từ năm 1969 đến năm 1972. Ấn tượng với phần mềm đó của Apollo, NASA đã điều chỉnh nó cho các dự án tiếp theo của mình bao gồm Skylab, tàu con thoi và máy bay kỹ thuật số đầu tiên -hệ thống dây trong máy bay.
Công trình của Hamilton đã đóng góp vào các khái niệm về “phần mềm không đồng bộ”, “lập lịch ưu tiên” và “hiển thị ưu tiên”, và khả năng quyết định liên tục của con người, đặt nền tảng cho thiết kế và kỹ thuật phần mềm hiện đại, tin cậy sau này” Trong quá trình làm việc về phát triển phần mềm Apollo , bà và các cộng sự của mình đã tạo ra các khái niệm nền tảng của kỹ thuật phần mềm hiện đại. Để ghi nhận những sáng tạo của mình, Hamilton đã được NASA trao tặng Giải thưởng hoạt động không gian đặc biệt. Giải thưởng này dành cho những đóng góp về khoa học và kỹ thuật. Giá trị của nó lên tới 37. 200 $ – giá trị giải lớn nhất trong lịch sử NASA.
Năm 2016, bà nhận được Huân chương Tự do do chính Tổng thống Mỹ trao tặng kèm lời phát biểu đáng nhớ: “Các phi hành gia không có nhiều thời gian, nhưng may thay họ đã có Margaret Hamilton.”
Barbara Liskov
Là người tiên phong trong việc thiết kế ngôn ngữ lập trình, phương pháp luận phần mềm và máy tính phân tán, Barbara Liskov đã định hình nhiều ý tưởng trong khoa học máy tính hiện đại.
Sau khi lấy bằng cử nhân toán tại UC Berkeley năm 1961, bà làm việc tại công ty Mitre Corporation, nơi bà phát hiện ra tài năng lập trình của mình. Sau một năm, bà chuyển đến Harvard, tại đây bà bắt đầu công việc dịch thuật máy tính các ngôn ngữ khác nhau và sau đó chuyển đến Stanford và sau này bà đã lấy bằng Tiến sĩ ở đây. Trong ngành khoa học máy tính, trong số những phụ nữ đầu tiên làm như vậy ở Mỹ. Luận án của bà viết về một chương trình chơi cờ vua và được giám sát bởi John McCarthy, một trong những người sáng lập ra trí tuệ nhân tạo.
Liskov tiếp tục dạy khoa học máy tính tại MIT. Trong một lần làm việc chung với Steve Zilles, bà đã phát minh ra khái niệm “trừu tượng hóa dữ liệu” – đây như một cách để tạo ra các hệ thống phần mềm đáng tin cậy hơn. Trong những năm 1970, bà đã lãnh đạo việc thiết kế và triển khai ngôn ngữ lập trình CLU . Tập trung vào lập trình mô-đun, trừu tượng hóa dữ liệu và đa hình, sự phát triển của CLU đóng vai trò là nền tảng của lập trình hướng đối tượng được sử dụng trong các ngôn ngữ lập trình hiện đại như Java và C #.
Bộ phận MIT của bà cũng đã tạo ra ngôn ngữ Argus vào những năm 1980, Barbara Liskov mở rộng ý tưởng của CLU để phân phối các chương trình qua mạng internet. Cùng với đó, bà phát triển một khái niệm mới về kiểu phụ, được gọi là nguyên tắc thay thế Liskov sau đó được chính thức hóa trong một công trình hợp tác với Jeannette Wing. Công việc tiếp theo của bà tập trung vào khả năng chịu lỗi Byzantine và tính toán phân tán. Với những đóng góp to lớn của bà trong việc phát triển các hệ thống máy tính tiên tiến, Hiệp hội Máy tính (ACM) đã trao tặng Liskov Giải thưởng Turing năm 2008. Năm 2012, bà được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng các Nhà phát minh Quốc gia.
Radia Perlman
Radia Perlman được biết đến nhiều nhất với việc viết thuật toán đằng sau Giao thức Spanning Tree (STP) và những đóng góp quan trọng trong an ninh mạng, Radia Perlman đã được gọi là “mẹ đẻ của internet”.
Bà được sinh ra trong một gia đình có cả cha và mẹ đều là những kỹ sư làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ, Perlman lớn lên với sở trường về toán học và khoa học. Sau khi lấy bằng cử nhân và thạc sĩ toán học tại MIT, bà đã nhận được một công việc tại Bolt, Beranek và Newman Technologies, một nhà thầu chính phủ nơi bà đã từng tham gia thiết kế các giao thức mạng.
Năm 1980, bà gia nhập Digital Equipment Corporation (DEC) để thiết kế định tuyến cho DECnet. Vào thời điểm đó, DEC đang cố gắng giải quyết vấn đề chia sẻ tệp giữa các máy tính. Perlman đã đưa ra một thuật toán được gọi là STP (Spanning Tree Protocol) về sau nó được sử dụng làm giao thức tiêu chuẩn cho công nghệ nối mạng. STP đã chuyển đổi Ethernet “từ khả năng mở rộng hạn chế ban đầu, CSMA / CD một dây”, thành một giao thức có thể xử lý các mạng lớn hơn. Công việc của Radia Perlman trên STP đã mang lại cho bà biệt danh “mẹ đẻ của Internet”.
Năm 1997, bà làm việc tại Sun Microsystems – một nơi bà có thể chuyên tâm nghiên cứu về an ninh mạng và thiết kế TRILL. TRansparent Interconnection of Lots of Links (TRILL) đã sửa chữa những thiếu sót của STP bằng cách cho phép Ethernet sử dụng tối ưu băng thông. Những đóng góp quan trọng khác của bà đối với an ninh mạng bao gồm “các mô hình tin cậy cho Cơ sở hạ tầng khóa công khai, hết hạn dữ liệu và các thuật toán phân tán có khả năng phục hồi bất chấp những người tham gia độc hại.”
Perlman là tác giả của cuốn “Interconnections” – một cuốn sách giáo khoa kinh điển về giao thức mạng. Năm 1997, bà cũng là đồng tác giả của một cuốn sách giáo khoa phổ biến khác mang tên “An ninh mạng”. Vì tác động sâu sắc của công việc trên mạng máy tính, năm 2014, bà đã được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Internet và năm 2016, vào Đại sảnh Danh vọng Nhà phát minh Quốc gia.
Trên đây chính là 5 người phụ nữ vĩ đại đã góp phần đưa nền công nghệ ngày càng phát triển với bước tiến mới. Họ đã có những cống hiến đáng ngưỡng mộ và tự hào. Nhờ khối óc cũng như sức sáng tạo ấy mà họ đã trở thành những người phụ nữ vĩ đại đã từng bước từng bước đưa công nghệ ngày càng hiện đại, cải tiến.